Mùa nước nổi An Giang: Mỗi bữa cất vó được 30 ký cá, có cả cá heo kêu éc éc
Cánh đồng ven tuyến kênh Tha La, Trà Sư (An Giang) mùa nước nổi năm nay đã ngập quá với tay người. Cá từ những cánh đồng giáp biên giới đi qua cửa ngõ đập tràn Tha La, Trà Sư rồi theo con nước bơi xuống phía hạ lưu và trở thành nguồn sống của dân câu lưới.
Cởi chiếc nón lưỡi trai đã bạc màu, lão ngư Nguyễn Văn Chín (người dân xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang) nheo nheo đôi mắt nhìn xa xăm, nơi có mấy chiếc xuồng con lặng lẽ, âm thầm mưu sinh với lũ. Ông Chín thật tình: “Mùa nước nổi năm nay, cá mắm đỡ hơn nên từ tháng 7 (âm lịch) đến giờ, tui đã đóng vó ở cặp tuyến kênh để bắt cá. Nền vó này có từ lâu, thời ông nội tui đưa lại cho tía, rồi bây giờ tui tiếp tục khai thác. Những người không có nền thì họ đóng vó dọc theo kênh hay sông lớn, chỗ nào thấy cá ít họ dời đi, còn mình có nền sẵn nên đóng một chỗ tới nước rút thì thôi”.
Đóng vó bắt cá ven kênh Tha La tỉnh An Giang trong mùa nước nổi tràn đồng. |
Mạnh tay kéo sợi dây to bản để nâng mặt lưới của chiếc vó rộng 11m, lão ngư có tên trùng với thứ của mình cứ huyên thuyên kể về thời cá ăn không hết, khi ông cùng cha ngủ ngoài lều canh vó suốt đêm.
“Hồi đó, mỗi lần cất vó lên là mấy chục ký cá, đủ loại, đủ cỡ như cá heo nước ngọt, cá trèn, các loại cá hủn hỉn rẻ tiền. Có khi tía tui lấy vợt xúc không kịp, phải xả vó vì sợ gãy càng. Thời đó cá dữ lắm, người ta bắt ăn không hết nên chẳng mấy ai đem ra chợ bán. Dính cá nhiều quá nên tía kêu má mần khô, không hết thì ủ mắm. Nếu còn dư thì cho lối xóm hoặc kêu xe ngựa chở vô sóc, phum để người ta ăn tiếp. Ham cá thì bắt, chứ nguồn thu từ cất vó hồi mấy chục năm trước chẳng có bao nhiêu”.
Mùa lũ năm nay, ông Chín đã đầu tư khoảng 15 triệu đồng để đóng giàn vó mới. Ông Chín cho biết, mỗi giàn vó có thể sử dụng trên 5 mùa nước nên vốn đầu tư không phải là chuyện quá khó với những ai theo nghề.
“Nghề này bắt cá theo kiểu tự nhiên, gặp luồng cá chạy thì mình kéo miết. Có khi cá “chạy” ban đêm, lắm lúc lại “chạy” ban ngày nên tui cứ ở ngoài vó suốt. Cá ngơi, mình nằm võng nghỉ rồi nhấp chén trà. Hiếm có nghề “bà cậu” nào thư thả như kéo vó nên thu nhập cũng thất thường. Hiện tại, tui cất vó mỗi ngày được hơn chục ký cá đủ loại, có nhiều cá heo. Bạn hàng vô gom lúc 4-5 giờ sáng, nếu bán đắt họ còn lấy cá vào buổi trưa. Vì tui vớt cá từ vó lên rồi rọng trong vèo nên ai muốn mua giờ nào cũng được” - ông Chín hào sảng.
Giữa cơn gió đồng trưa mát phả vào khuôn mặt của 2 người 1 già, 1 trẻ, câu chuyện về nghề cất vó cứ dài ra. Với người đã gần 70 tuổi như ông Chín, cất vó là truyền thống gia đình và ông sẽ đưa lại cho 1 trong 4 đứa con “nối nghiệp”. Bên chén trà đắng chát, ông Chín cảm nhận cái ngọt ngào của mùa lũ với những con cá óng ánh sẽ mang đến nguồn thu khá hơn cho dân câu lưới. Dù đã ở hàng “thất thập cổ lai hy” nhưng đôi tay của lão ngư này vẫn còn rắn rỏi để kéo vó mỗi mùa nước lũ như lời hứa thủy chung, son sắt với mẹ thiên nhiên.
Cùng nghề với ông Chín, bà Nguyễn Thị Lài (người dân xã Vĩnh Tế, TP. Châu Đốc, tỉnh An Giang) đã có 30 mùa lũ mưu sinh với chiếc vó càng. “Những dịp mùng 10 hay 25 (âm lịch) cá chạy dữ lắm, sản lượng có thể gấp 2-3 lần ngày thường. Với lại, nhờ nước năm nay lớn nên nhà tui cũng kiếm kha khá. Chỉ mong “bà cậu” thương mình cho cá vô vó thiệt nhiều để gỡ gạc lại mấy năm trước thất thu” - bà Lài chia sẻ.
Thời điểm này, chiếc vó càng của bà Lài cứ cất lên hạ xuống liên tục bởi lượng cá về nhiều. “Hổm rày, sắp nhỏ kéo được hơn 30 ký cá mỗi bữa nên kiếm được 300.000 - 400.000 đồng/ngày. Cá từ vó kéo lên được chia thành 2 loại. Những loại ngon có giá cao như: cá heo nước ngọt, cá kết, cá trèn thì tui đem ra chợ Tha La từ lúc 4 giờ sáng. Còn lại mớ cá hủn hỉn thì đợi bạn hàng chạy xuống tới vó cân về ủ mắm với giá 7.000 đồng/kg” - bà Lài cho hay.
Với diễn biến của mùa lũ năm nay, bà Lài và dân câu lưới đang nóng lòng chờ đến tháng 10 (âm lịch), khi những cơn gió bấc non vi vu thổi qua những cánh đồng nước rút là thời điểm cá về sông, mang đến những mẻ vó đầy ắp niềm vui cho bà và những ai theo nghề câu lưới.