Việc tổng kết pháp lệnh nhằm rà soát những kết quả đạt được, đồng thời tìm ra những bài học kinh nghiệm, những hạn chế cần khắc phục để bảo đảm cho việc bảo vệ các công trình quốc phòng, khu quân sự ngày càng hiệu quả hơn, góp phần không ngừng hoàn thiện thế trận phòng thủ.

quy hoach xay dung ket cau ha tang can gan voi cong trinh quoc phong
Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu kiểm tra công trình chiến đấu trong khu vực phòng thủ tỉnh Quảng Ninh (tháng 11 năm 2017). Ảnh: DUY HỒNG

Theo dõi việc tổng kết thực hiện pháp lệnh ở các đơn vị cấp trực thuộc Bộ Quốc phòng và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho thấy: Những năm qua, công tác xây dựng, bảo vệ hệ thống công trình quốc phòng của các đơn vị, địa phương đã có nhiều tiến bộ. Trước hết là công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự theo tinh thần của pháp lệnh đã được triển khai toàn diện, có chiều sâu. Các đơn vị, địa phương đã kết hợp giữa tuyên truyền trực tiếp thông qua báo cáo viên với kết hợp lồng ghép tuyên truyền trên hệ thống phương tiện truyền thanh cơ sở, phương tiện thông tin đại chúng được hàng vạn buổi cho hàng chục triệu lượt người. Chẳng hạn ở Quân đoàn 1, đã tổ chức tuyên truyền trực tiếp gần 200 buổi cho gần 166.000 lượt cán bộ, chiến sĩ. Hoặc ở các tỉnh, như: Bình Phước, Bình Dương, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc... đã làm tốt công tác tuyên truyền, kết hợp với vận động nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật trong bảo vệ công trình quốc phòng, khu quân sự, chống lấn chiếm, xây dựng trái phép trong phạm vi các công trình. Theo đánh giá của các địa phương, công tác tuyên truyền đã góp phần nâng cao nhận thức cho nhân dân, gián tiếp tạo ra hiệu quả trong việc gìn giữ, bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự.

Cùng với công tác tuyên truyền, việc xây dựng các công trình quốc phòng, củng cố các khu quân sự cũng được các đơn vị, địa phương tích cực thực hiện. Đối với các đơn vị chủ lực khi được trên cấp kinh phí, các đơn vị đã tập trung nhân lực, vật lực, phối hợp chặt chẽ với các địa phương để tiến hành khảo sát, xây dựng các công trình. Hệ thống công trình đã được xây dựng qua kiểm tra đều bảo đảm chất lượng, đáp ứng cơ bản các tiêu chí về chiến thuật, kỹ thuật, phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc tác chiến phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình thi công các công trình, các đơn vị đã tích cực phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng công trình và thực hành tiết kiệm. Đến nay, toàn quân đã có hàng trăm sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong thiết kế, thi công, điển hình như: Binh chủng Công binh với sáng kiến hệ thống khoan thủy lực cơ động khi thi công đường hầm; Quân khu 3 với các sáng kiến trong vận chuyển chất thải khi xây dựng công trình...

Đối với các địa phương, việc xây dựng và bảo vệ các công trình quốc phòng những năm gần đây đã được chú trọng. Hầu hết các địa phương đều đã đưa việc xây dựng, bảo vệ các công trình quốc phòng, khu quân sự vào chương trình, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ, coi đó là một phần công việc quan trọng trong xây dựng khu vực phòng thủ. Hệ thống công trình quốc phòng, khu quân sự cơ bản được quy hoạch phù hợp với quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, đồng thời bảo đảm được tính bí mật đối với các hoạt động quân sự. Các địa phương cũng đã hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt thế trận quân sự các cấp. Đây là quy hoạch có tính “xương sống” để các địa phương xác định các khu vực, quy mô, tính chất những công trình quốc phòng cần phải xây dựng. Nhiều tỉnh, thành phố, như: Hà Nội, Quảng Ninh, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Bình Dương, Tây Ninh... đã xác định rõ nguồn kinh phí hằng năm cho xây dựng, bảo vệ các công trình quốc phòng, khu quân sự và đã triển khai đầu tư trong thực tế với hàng trăm tỷ đồng. Nhờ vậy, tiến độ xây dựng các công tình quốc phòng, khu quân sự được duy trì tốt, số lượng ngày càng tăng. Những tỉnh, thành phố có tốc độ đô thị hóa nhanh như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh... đã từng bước nghiên cứu, xây dựng các quy chế, quy định để kết hợp việc xây dựng các công trình dân sinh gắn với yếu tố quốc phòng, an ninh. Chẳng hạn như một số tỉnh đã quy định khi xây nhà cao tầng ở những vị trí trọng điểm thì phải có tầng hầm, hoặc sân đỗ trực thăng để sử dụng khi có tình huống xảy ra.

Ngoài những công trình quốc phòng mới được xây dựng, hệ thống hang động, sông suối, đồi núi (điểm cao án ngữ), có giá trị về địa hình quân sự cũng được khảo sát, lập bản đồ quy hoạch, đưa vào diện tôn tạo, quản lý phục vụ mục đích quốc phòng, nhất là khi đất nước chuyển vào các trạng thái quốc phòng. Nhìn một cách tổng thể thì hiện nay hệ thống công trình quốc phòng, khu quân sự trong cả nước, tuy chưa được đầy đủ về số lượng nhưng đã từng bước đáp ứng nhu cầu về hoạt động quân sự, quốc phòng trong thời bình và có thể giải quyết những yêu cầu cấp bách của thời chiến.

Sau 24 năm thực hiện pháp lệnh, các đơn vị, địa phương cũng đã nhận thấy, hiện nay, còn nhiều công trình quốc phòng, khu quân sự nằm rải rác trong khu dân cư, khu đô thị; một số lô cốt, hầm hào cũ nằm trên các trục đường, giá trị sử dụng hạn chế, do ảnh hưởng của phát triển kinh tế-xã hội. Các khu đất quốc phòng là thao trường, bãi tập, trường bắn... thường nằm trên các vùng đồi núi, địa hình phức tạp, nên công tác quản lý, bảo vệ gặp khó khăn, còn xảy ra hiện tượng lấn chiếm, xâm canh trái phép vào khu vực quân sự, công trình quốc phòng. Hơn nữa lực lượng trông coi các công trình còn hạn hẹp, nên chưa thể bao quát hết các khu vực quân sự. Các công trình quốc phòng ven biển, trên đảo, trên biển do tác động của khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, nên nhanh xuống cấp, kinh phí sửa chữa còn hạn hẹp khiến việc khắc phục chậm. Một số địa phương còn chưa chú trọng đến công tác kết hợp xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với xây dựng các công trình phục vụ quốc phòng, an ninh...

Để giải quyết những vấn đề trên, chúng tôi cho rằng, các đơn vị cần phối hợp với địa phương tiếp tục rà soát kỹ các quy hoạch về công trình quốc phòng và khu quân sự, từng bước cụ thể hóa địa điểm, mốc giới để hoàn thiện công tác quy hoạch vị trí khu quân sự, công trình quốc phòng, làm cơ sở xây dựng phương án bảo vệ chặt chẽ, phù hợp. Trong đó, phải tích cực tuyên truyền, động viên nhân dân cùng tham gia nhiệm vụ bảo vệ các khu quân sự, công trình quốc phòng, coi đây là một yêu cầu trong xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần trong khu vực phòng thủ. Cần phải xác định, muốn bảo vệ vững chắc các công trình quốc phòng, khu quân sự thì phải xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, lấy cấp ủy, chính quyền địa phương làm hạt nhân lãnh đạo, chỉ đạo. Một mặt, các địa phương cũng cần tiếp tục quán triệt cho mọi cán bộ, đảng viên nắm chắc các quy định của pháp lệnh, các văn bản hướng dẫn thi hành, từ đó vận dụng vào nhiệm vụ của cấp mình, ngành mình cho phù hợp. Ở tầm vĩ mô, các cơ quan chức năng cần tiếp tục rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, những văn bản đã không còn phù hợp với thực tiễn thì cần loại bỏ; những văn bản có nội dung chồng chéo với các văn bản khác thì cần điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 4-12-2017 về việc tổng kết 24 năm thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự.

Công trình quốc phòng, khu quân sự là tài sản của đất nước, nó có tác dụng đối với phát triển kinh tế-xã hội trong thời bình và thể hiện công năng trong thời chiến. Việc xây dựng và bảo vệ các công trình chính là trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và toàn thể nhân dân các địa phương mà nòng cốt là lực lượng vũ trang. Xác định rõ vai trò ấy thì việc xây dựng, bảo vệ các công trình, khu quân sự mới thực sự hiệu quả./.