Tăng trí nhớ bằng cách sốc điện cho não
Thiết bị nhận ra khi bệnh nhân gặp khó khăn trong việc học từ |
Nghiên cứu của Mỹ được mô tả là "đầy hứa hẹn", nhưng sẽ còn quá sớm để khẳng định chắc chắn nó có triển vọng trong điều trị sa sút trí tuệ.
Máy hoạt động bằng cách theo dõi bộ não về những chỉ báo cho thấy bộ não không học từ ngữ đúng cách và phát ra những sốc điện ngắn vào tế bào thần kinh (nơ ron).
Các nhà nghiên cứu cho biết, kích thích một vùng cụ thể xử lý ngôn ngữ làm tăng "đáng tin cậy và đáng kể" khả năng nhớ từ của bệnh nhân.
Các ví dụ khác về công nghệ kích thích thần kinh đã được sử dụng để cải thiện giấc ngủ và giảm lo âu.
Thử nghiệm gồm 25 bệnh nhân và tập trung vào thùy thái dương giữ, vùng não đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và củng cố những kí ức mới.
Đã hơn 15 năm trôi qua kể từ khi các nhà nghiên cứu phát triển một loại thuốc mới có thể làm được điều này.
Thùy não được kích thích bởi thiết bị đã phát hiện, theo tư thế đầu của người tham gia, cho thấy họ đang rất vất vả để ghi nhớ một từ cụ thể.
Các bệnh nhân được yêu cầu ghi nhớ 12 từ thông dụng xuất hiện trên màn hình trong 1,6 giây.
Sau đó, họ được giao một số nhiệm vụ tính toán để bị xao nhãng trước khi được yêu cầu đọc lại các từ.
BS. David Reynolds, giám đốc khoa học tại Alzheimer's Research UK cho biết: "Trong khi sa sút trí tuệ bao gồm một loạt các triệu chứng phức tạp, các vấn đề về trí nhớ là một trong những vấn đề hay gặp nhất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của nhiều người.
"Các chức năng của não phụ thuộc vào các tín hiệu điện và hóa học, và cùng với những tiến bộ công nghệ, nghiên cứu đang bắt đầu tìm hiểu xem liệu kích thích điện trực tiếp một số vùng não có thể giúp cải thiện các khía cạnh trí nhớ và tư duy hay không”.
"Các biện pháp để cải thiện trí nhớ và kỹ năng tư duy là mục tiêu chủ chốt trong nghiên cứu về sa sút trí tuệ, nhưng đã hơn 15 năm trôi qua kể từ khi các nhà nghiên cứu phát triển một loại thuốc mới có thể thực hiện được điều này".
Nghiên cứu được thực hiện tại Đại học Pennsylvania và công bố trên tạp chí Nature Communications.