Cô giáo bản nghèo, cống hiến tuổi thanh xuân cho học sinh vùng cao
Từ thành phố Cao Bằng, vượt hơn 50km, con đường men theo chân núi, gập gềnh gấp khúc; phóng viên Dân trí có mặt tại điểm Nặm Cáp, trường mầm non Minh Khai, xã Minh Khai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng - một trong những huyện đặc biệt khó khăn của cả nước, để thấu hiểu hết những câu chuyện, những mảng đời và cái tình người nặng hơn núi rừng của cô giáo mầm non Nông Thị Hảo (36 tuổi).
Nhìn học trò, không cầm nổi nước mắt
Mấy ai được có dịp chứng kiến nỗi vất vả gian truân của các cô giáo mầm non “cắm bản” ở vùng sâu vùng xa mà không rơi nước mắt vì xót xa. Đem được “con chữ” đến cho các em học sinh vùng cao, các cô giáo đã hy sinh tuổi trẻ, đời sống tinh thần, vượt qua những khó khăn trở ngại trong cuộc sống, thậm chí nhường cơm sẻ áo, đồng hành với học sinh. Gian nan con đường đưa chữ lên các vùng núi giờ đây không còn ở “ba cùng” mà giáo viên phải “bốn cùng”: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng chia sẻ ngôn ngữ với các em, mới có thể dạy tốt được.
Cô giáo Nông Thị Hảo đang dạy học sinh |
Cô giáo Nông Thị Hảo kể: “Sau khi ra trường, tôi xung phong lên vùng cao để dạy học, vượt khó khăn lên đây bám bản đã mười bốn mùa xuân. Các em học sinh 100% là dân tộc thiểu số: Dao, Tày, Nùng. Trẻ không được giao tiếp với xã hội, nên vốn kiên thức về tiếng Kinh còn hạn chế. Giáo viên chúng tôi phải học thêm luôn cả tiếng của các dân tộc để có thể dạy các cháu”.
Trong những ngày gian khó cắm bản gieo chữ, cô Hảo chứng kiến không ít những câu chuyện rơi nước mắt của học trò nghèo, kiên trì tới lớp. Cô Hảo chia sẻ thêm: “Trẻ ở đây rất khó khăn, đi bộ 6 km đường rừng tới trường. Mùa đông giá rét, có những em chỉ có 2 cái áo sơ mi để mặc, vừa ngồi trong lớp vừa run. Các cháu tới lớp đi đường rùng, đường suối rất xa, có cháu nhà cách trường 8km đường rừng. Học cả ngày nên các cháu mang cơm tới để ăn trưa, cơm chỉ có muối vừa, rau đắng, cá mắm hay ít thịt, có những cháu ăn cả mì tôm sống. Nhìn học trò của mình như vậy tôi đã không cầm nổi nước mắt”.
Càng thấu hiểu những khắc nghiệt của vùng cao, các cô giáo càng yêu nghề, yêu trẻ hơn. Cô giáo Hảo bày tỏ: “Chọn nghề làm giáo viên do yêu nghề, được nhìn thấy các cháu tới trường mỗi ngày là món quà tinh thần lớn nhất của tôi. Ai cũng chọn nơi đô thị thì nơi khó khăn hẻo lánh này ai sẽ tới mang chữ cho các em”.
Phải chăng, cô Hảo, sống mãi giữa bốn bề cây cối mãi nên thành quen. Cô giáo vẫn luôn hiện diện tươi vui và lạc quan, không thấy khổ hay khó khăn áp lực, ngày dạy học, tối về soạn giáo án, hoặc tới nhà thăm gia đình học sinh. Đi dạy học, các cháu thích tới trường, yêu cô giáo và phụ huynh cũng quý cô giáo, nên phần nào cũng làm vơi đi bớt nỗi nhớ nhà, nhớ con của cô.
Khi được hỏi về chồng và con, cô Hảo đã rơm rớm nước mắt: “Xa nhà nên nhớ con, nhớ chồng lắm. Đi dạy xa chỉ được về tranh thủ cuối tuần 1, 2 ngày bên con. Cũng may có gia đình và chồng hiểu và tạo điều kiện nên cũng đỡ tủi, đỡ nhớ nhà. Nhớ con thì cũng chỉ biết mang ảnh ra ngắm”.
Chính những đôi mắt trong sáng, nụ cười hồn nhiên của học trò chính là động lực tiếp thêm sức mạnh cho cô giáo trẻ Nông Thị Hảo |
Sự hi sinh thầm lặng của cô Hảo, chồng và con cô bao năm qua, không gì có thể diễn tả hết nỗi lòng ấy được. Công ơn của các cô giáo mầm non, sao có thể nói hết được bằng lời, đã hi sinh cả tuổi thanh xuân, vì lửa nghề và nhiệt huyết cõng con chữ lên đồi cho các cháu dân tộc vùng cao.
Nhưng chính những đôi mắt trong sáng, nụ cười hồn nhiên của học trò chính là động lực tiếp thêm sức mạnh cho cô giáo trẻ Nông Thị Hảo, vượt qua khó khăn mà hoàn thành việc gieo con chữ cho các em học sinh mầm non.Cuộc sống của giáo viên bản tuy đơn giản nhưng không hề tầm thường.
Điện, nước, sóng điện thoại…là thứ xa xỉ
Nếu phong anh hùng hay chiến sĩ thi đua thì có lẽ cô giáo mầm non nơi đây là những người đầu tiên đứng trong danh sách. Giữa bốn bề chỉ cây và núi, cuộc sống người giáo viên thiếu thốn trăm bề.
Năm điều thiếu cơ bản nhất: thiếu sóng điện thoại, thiếu sóng truyền hình, thiếu nước sinh hoạt, thiếu điện, thiếu cơ sở vật chất. Nước sinh hoạt với các cô giáo ở đây lại coi là một thứ rất xa xỉ, tận dụng mọi nguồi nước, nước khe, nước mưa, nước xin nhà dân cách xa vài km về dùng.
Làm việc xa nhà, sống giữa bản nghèo, vậy mà còn không có sóng điện thoại. Cô Hảo cười: “Nhớ con, gọi điện về đều phải chạy lên đồi, hay chạy ra chỗ có sóng được dò trước đó để nghe giọng con. Phải treo điện thoại lên chỗ nào có sóng thì mới liên lạc được với bên ngoài”.
Con chữ có nặng không mà hành trình mang con chữ tới bản lại gian nan tới thế. Hành trình không chỉ ấy được đo đếm chiều dài những quãng đường, mà hơn hết là tâm huyết, lòng yêu nghề với các em học sinh vùng cao.
Sự cô lập giữa núi rừng hoang vu, trăm bề khổ nhưng cũng không thể làm nhụt chí người giáo viên mầm non ấy. Cô túc tắc sống giữa mọi thiếu thốn, nhưng đối với các cháu mầm non thì lại rất nhẫn nại và đầy tình thương, vừa dạy, vừa dỗ các cháu tới trường mỗi ngày.
Đồ dùng học tập do các cô tự làm cho học sinh |
Những đồ dùng phục vụ học tập được cô tự tay làm, từ con thỏ, con cá đến những đồ chơi ngoài chơi, ném ống, tung cầu đều rất tỉ mỉ và khéo léo. Cô truyền hồn và cảm hứng tới vào đồ chơi để các cháu thích thú và chăm chỉ tới trường mỗi ngày hơn.
Phương pháp dạy học cũng được cô trau dồi qua việc trao đổi kinh nghiệm giữa đồng nghiệp, sáng tạo các trò chơi, bài hát tạo điều mới mẻ, thu hút cho trẻ khi học. Có lẽ như vậy mà sĩ số các lớp luôn đầy đủ. Không ngại khó, ngại khổ, cô Hảo vẫn miệt mài ngày ngày quan tâm, dạy bảo, ân cần bên học sinh thân yêu của mình mà quen với khó nhọc núi rừng trên mảnh đất Cao Bằng.
Sự nghiệp trồng người ở đây thật quá gia nan, con đường nào để các em thu nạp kiến thức là chủ cuộc đời, con đường nào để đem đến một tương lai tươi đẹp hơn cho vùng đất này. Câu hỏi ấy vẫn là niềm trăn trở không chỉ riêng các cô giáo ở đây, còn là niềm trăn trở của toàn xã hội./.