Sửa đổi Luật Giáo dục: Ai đang bị bỏ lại phía sau?
Dành tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm (khoảng 5% GDP) để đầu tư cho mục tiêu phát triển hệ thống giáo dục là quyết tâm chính trị lớn lao và nhân văn của Đảng và Nhà nước để thực hiện quốc sách hàng đầu trong điều kiện một quốc gia có thu nhập trung bình ở mức thấp. Có những thời điểm, mức đầu tư cho giáo dục của Việt Nam thậm chí còn vượt cả một số nước phát triển trong khu vực như Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan…Vậy nhưng, không phải lúc nào thành quả phát triển này cũng được chia đều cho mọi người.
Hồ sơ sửa đổi Luật Giáo dục năm 2005 và Luật giáo dục đại học năm 2012 đang được Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 cho thấy vấn đề giáo dục cho trẻ em khuyết tật, thanh niên khuyết tật dường như đang bị bỏ lại phía sau.
(Ảnh minh họa) |
Từ cam kết chính trị mạnh mẽ…
Còn nhớ, tại phiên họp sáng ngày 28/11/2014 trong kỳ họp thứ 8 khóa XIII, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật (CRPD) với 2 ấn tượng mạnh mẽ: 100% đại biểu bấm nút tán thành và Điều 2 của Nghị quyết phê chuẩn tuyên bố Việt Nam cam kết thực hiện CRPD trên tất cả các lĩnh vực, không bảo lưu bất kỳ điều khoản nào. Cần nói rõ rằng đây là cam kết cực kỳ mạnh mẽ, vì nó ràng buộc nghĩa vụ của Nhà nước Việt Nam – với tư cách là thành viên của điều ước, trong điều kiện nền kinh tế còn khó khăn – phải nỗ lực không ngừng để tháo gỡ, giải quyết vô vàn những thách thức, rào cản phân biệt đối xử và nguy cơ bị “lề hóa” mà người khuyết tật (NKT), bao gồm cả trẻ em và người lớn đang đối mặt.
CRPD là một trong 9 điều ước quốc tế cốt lõi về nhân quyền của Liên hợp quốc, là một trong 4 điều ước nhân quyền toàn diện về quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, lao động di cư), và là điều ước nhân quyền đầu tiên của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI có được sau nhiều thập kỷ nỗ lực của Liên hợp quốc và cộng đồng NKT thế giới qua nhiều thế hệ.
Bởi vậy, việc Quốc hội Việt Nam phê chuẩn CRPD với tỷ lệ tuyệt đối và không bảo lưu bất kỳ điều khoản nào làm nức lòng và thắp lên ngọn lửa hy vọng trong cộng đồng NKT Việt Nam, cũng giống như niềm vui của cộng đồng NKT thế giới khi đón nhận kỷ lục có tới 82 quốc gia tham gia ký và 01 quốc gia phê chuẩn ngay CRPD vào ngày mở ký 30/3/2007 – cao nhất trong lịch sử phát triển các điều ước của Liên hợp quốc.
Giá trị lớn lao nhất là CRPD thắp lên cho mỗi NKT đó là đòi hỏi sự thay đổi có tính đột phá trong nhận thức về khuyết tật trên phương diện tiếp cận quyền, khẳng định NKT là một phần của sự đa dạng của nhân loại, dựa trên phẩm giá vốn có, NKT sở hữu đầy đủ và bình đẳng tất cả các quyền con người và tự do cơ bản. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm dỡ bỏ các rào cản để bảo đảm quyền của NKT. Điều đó cũng có nghĩa là loại trừ cách tiếp cận từ thiện và y tế, với định kiến đặc trưng coi NKT là nạn nhân của khiếm khuyết, là đối tượng của tình thương, không thể sống độc lập và phát triển bình thường.
Điều 24 Công ước CRPD yêu cầu các quốc gia thành viên phải có những điều chỉnh hợp lý để bảo đảm một hệ thống giáo dục hoà nhập, không phân biệt đối xử ở mọi cấp học và chương trình học tập suốt đời; đồng thời nhấn mạnh phải xóa bỏ những rào cản phân biệt đối xử tiềm ẩn trong chính sách, pháp luật, trong môi trường xã hội, trong thái độ, định kiến để NKT có thể tiếp cận với bậc đại học hoặc cao đẳng, hệ dạy nghề, giáo dục dành cho người lớn, trên cơ sở tôn trọng nhân cách, phẩm giá và khơi dậy tiềm năng phát triển của NKT, đặc biệt là trẻ em khuyết tật.
Đến sự thờ ơ có thật…
12 năm thi hành Luật giáo dục, 5 năm thi hành Luật giáo dục đại học, cũng ngần ấy thời gian để thực thi các quyết sách trọng đại của Đảng và Nhà nước trong Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020 - chặng đường đủ dài để nhìn nhận lại vấn đề quản trị giáo dục đối với NKT và sự hưởng lợi của trẻ em KT, thanh niên KT từ quốc sách hàng đầu của đất nước.
Vậy nhưng, dù cố gắng sử dụng các thủ pháp tìm kiếm để rà kỹ gần 100 trang báo cáo tổng kết thi hành 2 đạo luật này, cảm giác hụt hẫng, nhói buốt cứ rõ dần khi hầu như không thể tìm thấy nội dung nào đề cập đến hiện trạng giáo dục hòa nhập, giáo dục chuyên biệt cho học sinh KT, bảo đảm tiếp cận các cấp học cao hơn của thanh niên KT.
Và bởi vậy, cũng dễ hiểu tại sao trong 2 dự thảo luật sửa đổi được coi là xương sống của lĩnh vực giáo dục đang được Chính phủ trình ra Quốc hội trong kỳ họp này hoàn toàn không hề có bất kỳ điều khoản sửa đổi nào đề cập đến vấn đề tiếp cận giáo dục của người khuyết tật. Như vậy có 2 giả thiết:
- Một là, các quy định về giáo dục đối với NKT tại các điều 10, 27, 63, 82, 89 của Luật giáo dục hiện hành và việc thực thi chúng đã quá đủ, quá tốt để bảo đảm quyền học tập của NKT nên không cần phải sửa đổi, phát triển gì thêm. Giả thiết này, nếu có được đặt ra, sẽ là nỗi nhức nhối với cộng đồng NKT bởi thực trạng còn đầy bất cập của công tác giáo dục hòa nhập hiện nay.
Ngay trong kỳ họp này, báo cáo giám sát thi hành Luật giáo dục của Ủy ban văn hóa chỉ rõ: Tuy số lượng trẻ em khuyết tật đến trường có tăng hàng năm nhưng mục tiêu huy động 70% trẻ em khuyết tật đến trường trong Chiến lược phát triển giáo dục vẫn khó đạt được; năm 2015 “hơn một nửa số trẻ em khuyết tật nặng chưa từng được đến trường”.
Cũng năm 2015, báo cáo giám sát chuyên đề về Luật NKT của Ủy ban các vấn đề xã hội cũng cho thấy: Hầu hết các trường phổ thông chưa bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy để giáo dục hòa nhập; rất nhiều tỉnh, thành phố chưa có trung tâm, trường chuyên biệt dành cho học sinh KT; phần lớn cán bộ quản lý, giáo viên dạy học sinh KT chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn về giáo dục hòa nhập; số lượng NKT được dạy nghề đạt thấp, hầu hết chỉ ở trình độ sơ cấp...
- Giả thiết thứ hai là quá trình tổng kết thi hành luật, nghiên cứu sửa đổi luật đã bỏ quên vấn đề này, hay nói cách khác, dường như vấn đề giáo dục đối với cộng đồng NKT chiếm 7,8% dân số đã bị bỏ lại phía sau, hoặc cùng lắm là “nép” vào cùng những quy định trung tính, áp dụng chung cho mọi đối tượng.
Trong khi mê mải tập trung cho những “điểm nghẽn”, “nút thắt” của mô hình quản trị, đầu tư, phân quyền, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, hội nhập... thì sự thờ ơ, lãng quên các yêu cầu về sự điều chỉnh hợp lý mà Công ước CRPD đòi hỏi đối với chính sách giáo dục – đào tạo, hệ thống giáo dục – đào tạo cho NKT không có cơ hội được xem xét đến.
Đó là vấn đề thúc đẩy ngôn ngữ ký hiệu, ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển tài liệu, giáo trình bằng chữ nổi, sách nói, công cụ hỗ trợ học tập, phát triển đội ngũ giáo viên, thiết kế tiếp cận đối với trường học, cơ sở vật chất trường học, đẩy mạnh thiết kế phổ cập tạo điều kiện cho NKT không bị “lề hóa” khi tham gia vào môi trường xã hội…
Không luật hóa những vấn đề này thành chính sách, pháp luật, không nỗ lực cải thiện môi trường, thái độ, sự định kiến trên phương diện tiếp cận quyền, giấc mơ đến với giảng đường đại học của nhiều thanh niên khuyết tật sẽ mãi xa vời, đẩy sâu các em vào thế giới của sự mặc cảm, tự ty hoặc phải trông chờ vào tình thương, sự sẻ chia lòng từ thiện.
Đáng nói hơn, chỉ mới 3 năm trước, Luật giáo dục nghề nghiệp được Quốc hội ban hành năm 2014, cũng vào thời điểm phê chuẩn CRPD đã tạo ra bước tiến quan trọng để thúc đẩy cơ hội học tập, mưu sinh của NKT với hàng loạt chính sách về cơ sở giáo dục nghề nghiệp đối với NKT, hỗ trợ NKT tham gia học nghề, chế độ đối với giáo viên, giảng viên cho NKT.
Không lẽ gì Luật giáo dục đại học lại từ chối những quy định này, trong khi nhu cầu được học tập, phát triển của NKT là rất chính đáng, nhất là trong bối cảnh hiện nay sự gia tăng số lượng NKT vì nhiều nguyên nhân thực sự là vấn đề xã hội cần được quan tâm, chỉ tính riêng tai nạn giao thông mỗi năm cũng làm gia tăng thêm khoảng 2 vạn người bị thương ở nhiều độ tuổi khác nhau.
Hơn lúc nào, việc sửa Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học cần tạo ra những điều chỉnh hợp lý để trân trọng mở ra cơ hội tốt hơn bảo đảm quyền tiếp cận bình đẳng và tham gia đầy đủ của NKT vào hệ thống giáo dục, thụ hưởng thành quả phát triển của đất nước.
Mong sao các nhà hoạch định chính sách và quản lý giáo dục luôn lưu ý rằng: Sự từ chối điều chỉnh hợp lý môi trường và khả năng tiếp cận giáo dục ở những bậc học cao hơn đối với NKT là một trong những hình thức phân biệt đối xử nổi bật mà Công ước CRPD nhấn mạnh.
Ths. Phạm Trọng Cường
(PVT Vụ các vấn đề Xã hội, Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội)