Bồng bềnh nghề “vớt vàng trắng” ở đảo Cô Tô
Những ngày này, vùng biển Cô Tô (Quảng Ninh) rộn ràng trong mùa sứa biển. Nhiều người ví von đây là nghề vớt “vàng trắng”, bởi nguồn thu lớn mà nó đem lại cho hàng nghìn ngư dân khai thác cùng chủ xưởng, nhân công chế biến. Nghề sứa cũng từ đó mà có những tác động nhiều chiều tới kinh tế, môi trường nơi huyện đảo tiền tiêu.
Gần nửa đêm, tàu của anh Đinh Văn Thuy mới bắt đầu ra khơi trong sương mù. Cũng như hàng trăm tàu cá khác tại vùng biển Cô Tô thời điểm này, tàu anh trang bị đơn giản gồm lưới, bóng đèn khoảng 1.000W, những chiếc vợt dài.
Nghề khai thác và chế biến sứa thu hút hàng nghìn ngư dân cùng người lao động đổ về Cô Tô mỗi mùa vụ. |
Công việc không phải là đánh bắt, mà là vớt những con sứa biển. Người ngư dân bảo, chẳng khác lời hẹn, từ tháng Giêng đến tháng 4 hàng năm, sứa đủ màu trắng, xanh, đỏ cứ thế trôi nổi, đầy ắp trên mặt biển Cô Tô
“Mùa này sứa sẽ nổi lên cho ngư dân vớt, ai có sức khỏe sẽ vớt được nhiều. Ngư dân dùng vợt vớt sứa, sứa nhỏ thì lấy cả con, sứa to thì giật nón sứa bỏ đi chỉ lấy phần chân, vớt từ đêm đến sáng sẽ đưa sứa vào bờ bán”, anh Thuy cho biết.
Bao năm qua, những con sứa luôn khiến ngư dân tránh xa vì lo rách lưới nay bỗng chốc hóa thành “vàng trắng” nên người người đổ xô đi vớt. Có ai ngờ loài nhuyễn thể dập dềnh ấy lại là đặc sản có giá trị dinh dưỡng cao, rồi còn chế biến đóng gói xuất khẩu.
Từ 10 năm gần đây, Cô Tô - vựa sứa của cả nước như thỏi nam châm hút hàng nghìn ngư dân, người lao động từ cả Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An,… đổ về mỗi mùa sứa.
Vớt sứa tưởng “làm chơi” mà cũng rất vất vả. Sứa tích nước biển nên rất nặng, mỗi con nặng trung bình 15-20kg, có thể tới 50-60kg, chưa kể tay chân bị đốt sưng vù, tấy đỏ. Tuy nhiên, công sức bỏ ra hoàn toàn xứng đáng khi giá mỗi đầu sứa mang về cho ngư dân từ 10.000 – 40.000 đồng. Có tàu nhiều đêm vớt được trên 1.000 con, thu cả chục triệu đồng. Tính cả vụ có thể thu nhập tới 300 - 500 triệu đồng, cao hơn nhiều so với đánh bắt cá.
Tuy thế, sứa chỉ thực sự trở thành “vàng” khi qua tay các xưởng chế biến. Trên đảo lớn Cô Tô và xã đảo Thanh Lân, các xưởng chế biến nối nhau dài dằng dặc, hoạt động đêm ngày trong tiếng máy móc ầm ì.
Ông Nguyễn Viết Ngợi, chủ xưởng vốn chuyển từ nghề cơ khí sang làm sứa hào hứng cho biết, sứa sau khi được thu mua đưa lên sân xưởng, công nhân sẽ tập trung phân loại, lấy đầu, chân rồi đưa vào bể máy quay ly tâm để đánh sạch nhớt và làm sứa cứng lại, thải hết tạp chất.
“Sau khi quay 10-12 tiếng sứa được đưa ra bể có nước muối, nồng độ tăng dần đến 20-25% để ngâm vài ngày tới cả tháng. Cuối cùng con sứa sẽ cứng, trắng, sáng đẹp, không còn nước ở trong là đảm bảo”, ông Ngợi cho biết.
Sứa thành phẩm đóng thùng 9-12kg được bán ra trên dưới 1 triệu đồng nhưng riêng sứa đỏ có thể tới cả chục triệu. Xưởng ông Ngợi năm 2016 xuất hơn 2 vạn thùng, trừ chi phí lãi gần 1 tỷ đồng. Nhờ dám đầu tư, những “tỷ phú nghề sứa” như vậy đã không còn hiếm ở Cô Tô. Làm việc tại mỗi xưởng có khoảng 50 nhân công, tất bật từng ca nhưng thu nhập rất ổn định.
Chị Mai Thị Thảo, công nhân người địa phương chia sẻ: “Làm sứa có mệt nhưng thu nhập tốt, ổn định. Có tháng nhiều việc tiền công được hơn 10 triệu đồng, trong vòng 3 tháng công nhân thu nhập cao nhất cũng được 35-40 triệu đồng”.
Hết mùa sứa, dân đảo Cô Tô lại quay sang làm du lịch, đánh cá. Chị Thảo kể, nghề sứa đã giúp nhiều dân Cô Tô làm giàu, nhiều khách sạn, nhà hàng to đẹp trong thị trấn đều của các chủ sứa.
Ngỡ tưởng đơn giản nhưng nghề khai thác và chế biến sứa cũng nhiều bấp bênh vì phụ thuộc vào thời tiết. Có năm sứa nhiều ngư dân trúng mùa nhưng cũng có năm sứa chỉ nổi lác đác. Chế biến sứa cũng vậy, có vụ được giá, có vụ sứa giá rẻ phải tồn kho.
“Thị trường tiêu thụ sứa không rộng vì chủ yếu chỉ xuất sang Trung Quốc. Nếu tiêu thụ trôi chảy sứa còn được giá, chỉ cần thị trường ùn tắc hoặc đối tác không nhiệt tình thu mua là chế biến sứa sẽ không có lợi nhuận”, Chủ xưởng Nguyễn Viết Ngợi trầm ngâm.
Nghề sứa đem lại thu nhập ổn định cho người dân, nhiều người làm giàu. |
Ồ ạt làm sứa với nguồn lợi “khủng”, cũng không ít người dần nhận ra tài nguyên “trời cho” này không phải là vô tận. Vấn đề đặt ra là liệu việc khai thác sứa hàng loạt có biến thành tận diệt, khiến nguồn sứa cạn kiệt dần? Những dãy nhà xưởng chế biến dài hun hút có “nuốt dần” những bãi biển? Công nghệ chế biến ngày ngày đổ ra nước thải, rác thải nhớp nháp có khiến nước biển ô nhiễm? Khi mà, Cô Tô vốn được coi là “viên ngọc xanh” giữa đại dương, nơi thu hút hàng chục vạn khách du lịch mỗi năm.
Những thắc mắc này được Phó Chủ tịch UBND huyện Cô Tô, ông Đào Văn Vũ lý giải, huyện đảo chỉ tập trung các khu vực chế biến sứa ở xa các khu dân cư, điểm du lịch để đảm bảo không tác động đến bãi tắm, khu dân cư sinh sống.
“Trong quá trình cấp phép hoạt động, huyện Cô Tô đều yêu cầu các chủ xưởng cam kết chặt chẽ, tất cả các xưởng đều phải có hệ thống thu gom, xử lý nước thải, đảm bảo khi ra môi trường phải an toàn. Hiện tại huyện có 28 cơ sở sản xuất đều đảm bảo cam kết bảo vệ môi trường”, ông Vũ khẳng định.
Ông Vũ cũng cho biết, huyện Cô Tô cùng Nghiệp đoàn nghề cá liên tục hỗ trợ ngư dân, các cơ sở chế biến liên kết với nhau, đảm bảo giá cả đầu ra. Hàng nghìn người ngoại tỉnh và lân cận đổ về đảo mỗi năm đều được lực lượng công an quản lý để đảm bảo an ninh, trật tự.
“Cô Tô đang khẩn trương hoàn thành giai đoạn 2 Trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Vịnh Bắc bộ. Huyện đang kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vục chế biến thủy sản, đặc biệt là chế biến sâu, các sản phẩm có thể tiêu dùng tại chỗ. Khuyến khích sản xuất sang sản phẩm sứa ăn liền để phục vụ khách du lịch, có thể xuất khẩu tại chỗ”, ông Vũ cho biết.
Về lâu dài, Cô Tô sẽ đưa sứa trở thành sản phẩm du lịch, để món đặc sản độc đáo này sẽ là món quà ý nghĩa cho du khách gần xa mỗi khi đến với đảo ngọc tiền tiêu./.