Sáng 25/5 tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi).

no cong tang nhanh ap luc tra no trong ngan han lon

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng

Nợ công "phình to"

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, đến cuối năm 2016, ước tỷ lệ nợ công/GDP ở mức 63,7% GDP, nợ của Chính phủ ở mức 52,6% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 44,3% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ là 14,8% tổng thu ngân sách Nhà nước.

Chỉ tính riêng quy mô dư nợ nước ngoài của Chính phủ (trong đó vay ODA, vay ưu đãi chiếm trên 94%) đến cuối năm 2015 so với cuối năm 2011 đã tăng 6,5 lần, tập trung vào 3 nhà tài trợ chính: Ngân hàng Thế giới (WB) tăng 11,5 lần, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tăng 20,3 lần, Nhật Bản tăng 6,8 lần.

Luật Quản lý nợ công được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ở mức cao nhất đối với hoạt động quản lý nợ công. Theo đánh giá của Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, qua 7 năm triển khai thực hiện, Luật đã tạo hành lang pháp lý phù hợp với mức độ phát triển của nền kinh tế - xã hội thời gian qua, góp phần quan trọng trong việc huy động vốn cho bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước.

Bên cạnh đó, Luật giúp tạo nguồn lực đầu tư cho các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế thông qua cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ và bảo lãnh của Chính phủ đối với các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư quan trọng trong các lĩnh vực ưu tiên đầu tư của Nhà nước; tạo điều kiện cho các địa phương huy động vốn vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương và vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài. Cơ cấu nợ đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng vay nợ trong nước, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia, quản lý nợ công từng bước được hoàn thiện…

Tuy nhiên, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế như chưa có phân định rõ ràng và sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa quản lý nợ công, quản lý ngân sách và quản lý đầu tư công. Các quy định về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, cấp và quản lý bảo lãnh của Chính phủ cũng đã bộc lộ những hạn chế cả về đối tượng, điều kiện cho vay lại, cấp bảo lãnh và cơ chế quản lý, giám sát sử dụng vốn vay, kiểm soát rủi ro đối với bảo lãnh Chính phủ.

Ngoài ra, công tác quản lý nợ công cũng đã bộc lộ một số bất cập chủ yếu như nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc quản lý, sử dụng vốn vay còn bất cập, phân bổ vốn đầu tư từ nguồn vốn vay nợ công còn dàn trải và hiệu quả đầu tư chưa cao.

Ông Đinh Tiến Dũng cho biết, thực tế đã phát sinh những rủi ro từ các dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ và vốn vay Chính phủ bảo lãnh dẫn đến không trả được nợ, Chính phủ phải trả nợ thay.

Cần sửa đổi Luật Quản lý nợ công

Bộ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh: Việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các quy định của pháp luật nói chung và các quy định liên quan đến công tác quản lý nợ công nói riêng là hết sức cần thiết.

no cong tang nhanh ap luc tra no trong ngan han lon

Áp lực trả nợ gia tăng (Ảnh minh họa: KT)

Về giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế, ông Đinh Tiến Dũng đề xuất phải làm rõ về phạm vi, công cụ quản lý nợ công; phân định giữa quản lý ngân sách, đầu tư công và quản lý nợ công; công tác giám sát và đảm bảo an toàn nợ công; quản lý rủi ro; thống kê, kế toán, kiểm tra, giám sát nợ công, nâng cao và gắn trách nhiệm giải trình với chức năng, nhiệm vụ quản lý nợ công của các cơ quan có liên quan.

Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, việc tiếp cận nguồn vốn vay ODA ngày càng hạn chế và dần phải tiếp cận với các nguồn vốn kém ưu đãi và nguồn vốn thương mại theo điều kiện thị trường. Do đó, việc phân loại về nguồn vốn vay gắn với tính chất, điều kiện từng nguồn vốn vay của Chính phủ cũng là giải pháp tích cực để có các quy định tương ứng về quản lý sử dụng, từ khâu huy động, xác định đối tượng sử dụng vốn và quy trình quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay của Chính phủ và đảm bảo an toàn nợ theo đúng chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng lưu ý.

Chỉ tính riêng quy mô dư nợ nước ngoài của Chính phủ (trong đó vay ODA, vay ưu đãi chiếm trên 94%) đến cuối năm 2015 so với cuối năm 2001 đã tăng 6,5 lần, tập trung vào 3 nhà tài trợ chính: Ngân hàng Thế giới tăng 11,5 lần (274,2 nghìn tỷ đồng/23,9 nghìn tỷ đồng); Ngân hàng Phát triển Châu Á tăng 20,3 lần (151,1 nghìn tỷ đồng/7,5 nghìn tỷ đồng); Nhật Bản tăng 6,8 lần (243,9 nghìn tỷ đồng/35,9 nghìn tỷ đồng)./.